Tài liệu ôn tập môn Quan he quoc te

74 0 0
Tài liệu ôn tập môn Quan he quoc te

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

Thông tin tài liệu

QUAN HỆ QUỐC TẾ 1: Phân tích cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đối mới 2: Phân tích quá trình hình thành, phát triển đường lốt đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới 3: Phân tích một số nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nưởc ta hiện nay 4: Phân tích những thành tựu, hạn chế và bài học từ quá trình triển khai thực hiện dưỡng lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới 5: Đồng chí hãy phân tích thực trạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh đến nay 6: Đồng chí làm rõ vị trí, vai trò của Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế sau Chiến tranh lạnh và dự báo triển vọng của Phong trào trong thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI 7: Nêu và phân tích mục tiêu và chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đên nay 8: Nêu và phân tích mục tiêu và chính sách đối ngoại của TQ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay 9: Đồng chí hãy phân tích quá trình hợp tác, liên kết an ninh I chính ữị của ASEAN sau chiến tranh lạnh 10: Đ/c hãy phân tích quá trình hợp tác, liên kết trên lĩnh vực kinh tế của ASEAN sau chiến tranh lạnh 11: Phân tích quan niệm về thời đại và thời đại ngày nay 12: Đặc điểm, mâu thuẫn và xu hướng vận động trong giai đoạn hiện nay của thời đại 13: Phân tích các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản 3 14: Đặc điểm và xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại 4,5 15: Vai trò, vị thế của chủ nghĩa tư bản trong quan hệ quốc tế hiện nay 2,5 Câu 1: Phân tích cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trả lời: Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Với việc đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn qua từng thời kỳ lịch sử đã góp phần quan trọng vào giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát triển đất nước; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Sở dĩ Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới như vậy là dựa trên những cơ sở sau: Một là, xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới và khu vực: - Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Liên Xô tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ làm cho cục diện thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách cơ bản. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện. Cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, cán cân so sánh lực lượng thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. - Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, trật tự thế giới hai cực chấm dứt. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới theo hướng “đa cực”, “đa trung tâm”… chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định . - Cách mạng khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt tác động sâu sắc tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng này thúc đẩy lực lượng sản xuất của thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. - Toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Trong xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hóa đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. - Thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra gay go, phức tạp. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên xảy ra ở nhiều nơi. - Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc có những biểu hiện mới với hình thức và nội dung đa dạng. Cùng với cuộc đấu tranh do các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, tại nhiều nước diễn ra cuộc đấu tranh chống âm mưu can thiệp, lật đổ thông qua “cách mạng màu sắc”. - Các nước lớn là nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển của thế giới. Một số cường quốc có sức chi phối lớn nền chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, trong đó Mỹ vẫn có ưu thế khá nổi trội, tỏ rõ tham vọng “lãnh đạo” thế giới. - Nhân loại đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Những vấn đề toàn cầu cấp bách nhất đe dọa sự sống và sự phát triển bền vững của loài người trước hết là tình trạng ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số, những bệnh dịch hiểm nghèo, tội phạm quốc tế. - Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động. Hợp tác khu vực diễn ra sôi động trên nhiều tầng nấc từ liên khu vực đến hợp tác theo nhóm nước và song phương, từ chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế mở rộng ra các lĩnh vực chính trị, an ninh. Xu thế vận động của thế giới hiện nay: Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo sự ổn định chính trị, mở rộng hợp tác quốc tế. Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch định và triển khai thực hiện nhằm tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước, trước hết về kinh tế. Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước với chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức quan hệ giữa các nước. Tình hình thế giới và khu vực với những đặc điểm và xu thế nêu trên quy định tính đa dạng hóa, đa phương hóa trong chính sách đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại, tìm cách hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển. Hai là, xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước Sau chiến tranh, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn: Khủng hoảng kinh tế xã hội. Trên lĩnh vực đối ngoại, nước ta bị bao vây về kinh tế, bị cô lập về chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định: - Về nhiệm vụ trước mắt: Nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng KTXH, phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại. - Về nhiệm vụ cơ bản và lâu dài là sớm đưa nước ta thoát tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ba là, xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và truyền thống ngoại giao của dân tộc. Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính nguyên tắc và được thể hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến lược như: - Giữ vững tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tự mình quyết định đường lối, chủ trương đối ngoại: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương châm hành động của ngoại giao Việt Nam. Vấn đề này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi lợi ích quốc gia, dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Đó là sự kết hợp sức mạnh vật chất (thể hiện ở sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự…) và sức mạnh tinh thần (tính chính nghĩa mà dân tộc ta theo đuổi; truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường chống ngoại xâm; nền văn hóa dân tộc được xây dựng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; vị trí địa - chính trị và địa kinh tế quan trọng…) với sức mạnh thời đại (thể hiện qua các trào lưu về độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội), cũng như các xu thế lớn của thế giới (quyền độc lập cho mọi quốc gia; quyền tự quyết cho mọi dân tộc; xu thế hòa bình cho toàn thế giới và sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ). - Ngoại giao công tâm: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính nghĩa, giữ vững lẽ phải, đạo lý và nhân tính; là nền ngoại giao mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hòa bình, tự do, công lý; là nền ngoại giao coi phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới là lực lượng của mình, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết nhất trí giữa các nước xã hội chủ nghĩa… - Ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Đó là nền ngoại giao theo đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”. Người nhấn mạnh quan điểm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Chủ trương phát triển quan hệ hợp tác với các nước, song Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực. Hồ Chí Minh luôn coi ngoại giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và đây cũng thể hiện tính nhân văn của dân tộc Việt Nam. - Ngoại giao lấy dĩ bất biến, ứng vạn biến: Đó là nền ngoại giao kiên trì trong nguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược. Trong đó, vấn đề có tính bất biến là nguyên tắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Còn tính biến hóa thể hiện ở phương thức thực hiện, khi cương khi nhu, khi tiến khi lui tùy theo từng vấn đề, thời điểm và bối cảnh cụ thể. Kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc Một trong những nét nổi bật hàng đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là truyền thống ngoại giao hòa bình, hữu nghị. Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân văn, hòa hiếu bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, đây cũng còn được quy định bởi vai trò, vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị quan trọng của nước ta ở khu vực. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc kế thừa và phát huy truyền thống ngoại giao của ông cha; đồng thời những bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu của Đảng trong các giai đoạn đấu tranh cách mạng giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã góp phần làm giàu và phong phú thêm truyền thống ngoại giao dân tộc. Bên cạnh đó tình hình khu vực Đông Á với sự khác biệt lớn về diện tích, dân số, nhất là trình độ phát triển kinh tế và chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và tôn giáo; là nơi có vị thế địa chiến lược quan trọng của thế giới. Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, Đông Á trở thành khu vực phát triển năng động, cũng là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi sâu sắc của môi trường địa - chính trị và địa - kinh tế tại Đông Á từ sau Chiến tranh lạnh đã mở ra một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của Đông Á trong quan hệ quốc tế. Vai trò của Đông Á trong quan hệ quốc tế ngày càng quan trọng hơn, xét trên cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế song tình hình an ninh chính trị tiếp tục diễn biến rất phức tạp với sự can thiệp của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác với cấu trúc quyền lực đang được duy trì trong trạng thái “cân bằng thấp”. Vì vậy, là quốc gia nằm trong khu vực đó, khi hoạch định chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam phải luôn nắm vững tình hình của khu vực. Câu 2. Phân tích quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước VN thời kỳ đổi mới? Trả lời: Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình

Trang 1

QUAN HỆ QUỐC TẾ

1: Phân tích cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đối mới

2: Phân tích quá trình hình thành, phát triển đường lốt đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới

3: Phân tích một số nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nưởc ta hiện nay

4: Phân tích những thành tựu, hạn chế và bài học từ quá trình triển khai thực hiện dưỡng lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới

5: Đồng chí hãy phân tích thực trạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từ sau Chiến tranh lạnh đến nay

6: Đồng chí làm rõ vị trí, vai trò của Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế sau Chiến tranh lạnh và dự báo triển vọng của Phong trào trong thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI

7: Nêu và phân tích mục tiêu và chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đên nay

8: Nêu và phân tích mục tiêu và chính sách đối ngoại của TQ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay

9: Đồng chí hãy phân tích quá trình hợp tác, liên kết an ninh I chính ữị của ASEAN sau chiến tranh lạnh

10: Đ/c hãy phân tích quá trình hợp tác, liên kết trên lĩnh vực kinh tế của ASEAN sau chiến tranh lạnh

11: Phân tích quan niệm về thời đại và thời đại ngày nay

12: Đặc điểm, mâu thuẫn và xu hướng vận động trong giai đoạn hiện nay của thời đại

13: Phân tích các thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản 3

14: Đặc điểm và xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại 4,5

15: Vai trò, vị thế của chủ nghĩa tư bản trong quan hệ quốc tế hiện nay 2,5

Trang 2

Câu 1: Phân tích cơ sở hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng và Nhànước Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Trả lời:

Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác vàphát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhậpquốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước ViệtNam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có tráchnhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Với việc đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn qua từng thời kỳ lịch sử đã góp phần quan trọng vào giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát triển đất nước; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế

Sở dĩ Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới như vậy là dựa trên những cơ sở sau:

Một là, xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới và khu vực:

- Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Liên Xô tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ làm cho cục diện thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách cơ bản Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện Cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, cán cân so sánh lực lượng thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản

- Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, trật tự thế giới hai cực chấm dứt Quá trình hình thành trật tự thế giới mới theo hướng “đa cực”, “đa trung tâm”… chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định

- Cách mạng khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt tác động sâu sắc tình

Trang 3

hình kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế Cuộc cách mạng này thúc đẩy lực lượng sản xuất của thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy

- Toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia Trong xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường diễn ra phổ biến Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hóa đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh

- Thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra gay go, phức tạp Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, song nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên xảy ra ở nhiều nơi

- Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc có những biểu hiện mới với hình thức và nội dung đa dạng Cùng với cuộc đấu tranh do các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, tại nhiều nước diễn ra cuộc đấu tranh chống âm mưu can thiệp, lật đổ thông qua “cách mạng màu sắc”

- Các nước lớn là nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển của thế giới Một số cường quốc có sức chi phối lớn nền chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, trong đó Mỹ vẫn có ưu thế khá nổi trội, tỏ rõ tham vọng “lãnh đạo” thế giới

- Nhân loại đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương Những vấn đề toàn cầu cấp bách nhất đe dọa sự sống và sự phát triển bền vững của loài người trước hết là tình trạng ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số, những bệnh dịch hiểm nghèo, tội phạm quốc tế

- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động Hợp tác khu vực diễn ra sôi động trên nhiều tầng nấc từ liên khu vực đến hợp tác theo nhóm nước và song phương, từ chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế mở rộng ra các lĩnh vực chính trị, an ninh

Xu thế vận động của thế giới hiện nay:

Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới Các nước đều dành ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức

Trang 4

mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo sự ổn định chính trị, mở rộng hợp tác quốc tế Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch định và triển khai thực hiện nhằm tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước, trước hết về kinh tế.

Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác

Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội Các nước với chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức quan hệ giữa các nước

Tình hình thế giới và khu vực với những đặc điểm và xu thế nêu trên quy định tính đa dạng hóa, đa phương hóa trong chính sách đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam Các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại, tìm cách hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển

Hai là, xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước

Sau chiến tranh, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn: Khủng hoảng kinh tế xã hội Trên lĩnh vực đối ngoại, nước ta bị bao vây về kinh tế, bị cô lập về chính trị.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định:

- Về nhiệm vụ trước mắt: Nhanh chóng thoát ra khỏi khủng hoảng KTXH, phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.

- Về nhiệm vụ cơ bản và lâu dài là sớm đưa nước ta thoát tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Ba là, xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởngHồ Chí Minh về đối ngoại và truyền thống ngoại giao của dân tộc.

Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính nguyên tắc và được thể

Trang 5

hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến lược như:

- Giữ vững tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tự mình quyết định đường lối, chủtrương đối ngoại: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương châm hành động

của ngoại giao Việt Nam Vấn đề này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi lợi ích quốc gia, dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế.

- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Đó là sự kết hợp sức mạnh

vật chất (thể hiện ở sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự…) và sức mạnh tinh thần (tính chính nghĩa mà dân tộc ta theo đuổi; truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường chống ngoại xâm; nền văn hóa dân tộc được xây dựng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; vị trí địa - chính trị và địa kinh tế quan trọng…) với sức mạnh thời đại (thể hiện qua các trào lưu về độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội), cũng như các xu thế lớn của thế giới (quyền độc lập cho mọi quốc gia; quyền tự quyết cho mọi dân tộc; xu thế hòa bình cho toàn thế giới và sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ)

- Ngoại giao công tâm: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính nghĩa, giữ

vững lẽ phải, đạo lý và nhân tính; là nền ngoại giao mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hòa bình, tự do, công lý; là nền ngoại giao coi phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới là lực lượng của mình, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết nhất trí giữa các nước xã hội chủ nghĩa…

- Ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Đó là nền ngoại giao theo đuổi

phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” Người nhấn mạnh quan điểm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” Chủ trương phát triển quan hệ hợp tác với các nước, song Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực Hồ Chí Minh luôn coi ngoại giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và đây cũng thể hiện tính nhân văn của dân tộc Việt Nam.

- Ngoại giao lấy dĩ bất biến, ứng vạn biến: Đó là nền ngoại giao kiên trì trongnguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược Trong đó, vấn đề

có tính bất biến là nguyên tắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Còn tính biến hóa thể hiện ở phương thức thực hiện, khi cương khi nhu, khi tiến khi lui tùy theo từng vấn đề, thời điểm và bối cảnh cụ thể

Kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc

Trang 6

Một trong những nét nổi bật hàng đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là truyền thống ngoại giao hòa bình, hữu nghị Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân văn, hòa hiếu bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc Đồng thời, đây cũng còn được quy định bởi vai trò, vị trí địa - chiến lược, địa - chính trị quan trọng của nước ta ở khu vực

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc kế thừa và phát huy truyền thống ngoại giao của ông cha; đồng thời những bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu của Đảng trong các giai đoạn đấu tranh cách mạng giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã góp phần làm giàu và phong phú thêm truyền thống ngoại giao dân tộc

Bên cạnh đó tình hình khu vực Đông Á với sự khác biệt lớn về diện tích, dân số,

nhất là trình độ phát triển kinh tế và chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và tôn giáo; là nơi có vị thế địa chiến lược quan trọng của thế giới Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, Đông Á trở thành khu vực phát triển năng động, cũng là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa các nước lớn Những biến đổi sâu sắc của môi trường địa - chính trị và địa - kinh tế tại Đông Á từ sau Chiến tranh lạnh đã mở ra một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của Đông Á trong quan hệ quốc tế Vai trò của Đông Á trong quan hệ quốc tế ngày càng quan

trọng hơn, xét trên cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế song tình hình

an ninh chính trị tiếp tục diễn biến rất phức tạp với sự can thiệp của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác với cấu trúc quyền lực đang được duy trì trong trạng thái “cân bằng thấp” Vì vậy, là quốc gia nằm trong khu vực đó, khi hoạch định chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam phải luôn nắm vững tình hình của khu vực.

Trang 7

Câu 2 Phân tích quá trình hình thành, phát triển đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước VN thời kỳ đổi mới?

Trả lời:

Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi những lợi ích quốc gia, dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, bắt nguồn từ Đại hội VI của Đảng (12-1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện ở các Đại hội Đảng tiếp theo đó Có thể chia quá trình này thành hai giai đoạn sau:

Về bối cảnh:

Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau.

Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển.

Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế, được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế

Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép

Trang 8

khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên

Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới thời điểm đó đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời đại Nên đã thu được những thành tựu to lớn Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại đổi mới đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng

Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối:

Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (12/1986) đến Đại hội VII (6/1991): Giaiđoạn hình thành CS ĐN đổi mới

Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã mở đầu quá trình hình thành chính sáchđối ngoại thời kỳ đổi mới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về tư duy đối ngoại Trước hết là rút ra những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”; nhận thức được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội Từ đó, Đảng

Trang 9

ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiếtbị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh và phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (5/1988) có tính đột phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự chuyển dịch đấu tranh ngoại giao từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại hòa bình Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế”

Bước ngoặt mang tính đột phá sáng tạo đối với sự phát triển tư duy đối ngoại, cũng như nhận thức cục diện thế giới và xu thế thời đại, được mở ra từ Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988), sau đó được Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VI, 3/1989) nâng lên một tầm cao mới Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI) vạch rõ cần phải chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Bước đột phá về tư duy đối ngoại nêu trên đã định hình những quan điểm cơ bản trong đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng ta

Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta” Theo đó, việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách; đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào các mạng thế giới là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.

Giai đoạn từ sau Đại hội VII (6/1991) đến nay: Giai đoạn bổ sung, pháttriển chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới

Trang 10

Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp Trong hoàn cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị – xã hôi khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” Đảng ta xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể Với Lào và Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh thần bình đẳng Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc đẩy bình thường hoá quan hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung Trong quan hệ với khu vực, chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác Đối với Hoa Kỳ, Đại hội nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua, đã xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.

Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại Trong đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tê Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.

Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù

Trang 11

hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng.

Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập ASEAN

Đại hội VIII của Đảng phát triển chính sách đối ngoại đổi mới, đưa ra chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới Đồng thời tuyên bố Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển Đại hội nêu rõ chủ trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch tự do (AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Chính sách đối ngoại đổi mới ở Đại hội này có các điểm mới sau:

- Một là: Chủ trương mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác.

- Hai là: Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hê với các tổ chức phi CP ̣

- Ba là: Đảng chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ đối ngoại của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp, với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức Trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã phát triển phương châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” Với phương châm này, lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây dựng quan hệ đối tác” trong đường lối đối ngoại Đây là điều có ý nghĩa quan trọng, bởi mô hình quan hệ đối tác chiến lược được coi là mô hình hợp tác ở mức độ cao và quan trọng hơn so với hợp tác quốc tế thông thường.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/1/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07/NQ-TW Về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm

Trang 12

nhanh chóng đưa Việt Nam vào các thể chế kinh tế, trước hết là AFTA và sau đó là WTO trên tinh thần “phát huy tối đa nội lực” Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta trên con đường hội nhập Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương khóa IX (5-01-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập tổ chức thương mại TG (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trên cơ sở những thành tựu đạt được, tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu chủ trương lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế So với đường lối đối ngoại Đại hội IX, Đại hội X đã điều chỉnh, bổ sung một số nội dung như: Thứ nhất, khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm từ hòa bình, hợp tác và phát triển); Thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính sách đối ngoại rộng mở); Thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần “chủ động” mà còn phải “tích cực”, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác; Thứ tư, quan điểm của Đại hội X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.

Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm 2011 - 2015 là “mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” So với nhiệm vụ đối ngoại được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã thể hiện bước phát triển mới về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” lên “hội nhập quốc tế” - hội nhập toàn diện, đồng bộ từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại của Đảng ta, là kết quả bước chuyển từ tư duy đối ngoại thời kỳ chiến tranh lạnh sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.

Trang 13

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 20/1/2016 đến ngày 28/1/2016 nêu rất rõ mục tiêu của chúng ta là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, quan hệ với tất cả các nước Đại hội xác định rõ 4 quan điểm: (1) Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; (2) Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; (3) Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; (4) Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Có thể thấy, chính sách đối ngoại của Việt Nam có kế thừa, điều chỉnh linh hoạt theo hoàn cảnh thực tế song luôn đề cao vấn đề có tính nguyên tắc đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

Câu 3: Phân tích một số nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại củaĐảng và Nhà nước ta hiện nay.

Trả lời:

Chính sách đối ngoại là hệ thống quan điểm về mục tiêu, nội dung, phương hướng, giải pháp nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, chỉ đạo hoạt động của lợi ích quốc gia dân tộc trên trường quốc tế.

Nhân loại đang sống trong thế kỷ XXI với nhiều biến đổi phức tạp và khó lường Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.

Trong 30 năm đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong ba thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi

Trang 14

mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan

hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạnvà là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoàbình, độc lập và phát triển."

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác vàphát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhậpquốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước ViệtNam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có tráchnhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

* Về mục tiêu đối ngoại: Tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi

cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Giữ vững hòa bình, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ, hợp tác của quốc tế cho sự phát triển của đất nước Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế, đồng thời đóng góp nhiều hơn đối với phong trào cách mạng thế giới.

* Về tư tưởng chỉ đạo:

- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;

- Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

- Là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế Trên cơ sở thế và lực mới của đất nước, Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh quan điểm tăng cường sự chủ động, tích cực của Việt Nam đối với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ và toàn diện, không chỉ hội nhập trong lĩnh vực kinh tế, mà còn trong các lĩnh vực khác Việt Nam cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, từ đó có thể đóng vai trò là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển

Trang 15

* Về nguyên tắc đối ngoại:

Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu

Cụ thể hóa nguyên tắc này, Đảng và Nhà nước Việt Nam nêu 4 nguyên tắc đối

ngoại chủ yếu: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không canthiệp vào công việc nội bộ của nhau Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũlực trong quan hệ quốc tế Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông quathương lượng hòa bình Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi Trong

giai đoạn hiện nay, Việt Nam xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.

* Về nhiệm vụ đối ngoại:

Đại hội XI nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác đối ngoại:

- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu toàn diện, ổn định, bền vững.

- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế

- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến

- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc

- Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.

- Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.

- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.

Trang 16

* Phương châm hoạt động đối ngoại:

Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩayêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân

Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đaphương hóa quan hệ đối ngoại

Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế

Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả cácnước

* Phương hướng hoạt động đối ngoại chủ yếu hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định: “Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng

giềng; thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giớibiển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và quytắc ứng xử của khu vực Xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp táccùng phát triển” Đây là một hướng ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại

nhằm tạo lập môi trường hòa bình, ổn định chung quanh đất nước

- Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới, trước hết là với các nước láng giềng, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các tổ chức quốc tế, chú trọng đưa các quan hệ đối tác đã được thiết lập đi vào chiều sâu, xây dựng các mối quan hệ thực chất, ổn định lâu dài

- Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới; tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng lớn trên thế giới.

- Thúc đẩy quan hệ với các nước phát triển, các nước bạn bè truyền thống

- Phát triển công tác ngoại giao nhân dân theo phương châm: “chủ động, linhhoạt, sáng tạo và hiệu quả”

- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, đe dọa đến an ninh và sự ổn định chính trị của Việt Nam.

- Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và

Trang 17

giảm tối đa những thách thức, rủi ro trong điều kiện Việt Nam đã trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

- Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.

- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.

- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Với việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới, sáng tạo, Việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng, giữ vững môi trường hòa bình, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, vị thế và ảnh hưởng của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới

Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn, có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), là thành viên sáng lập ASEM (1996), gia nhập APEC (1998) và trở thành thành viên thứ 150 của WTO (2006), gia nhập tổ chức Thương mại hợp tác xuyên Thái Bình Dương TPP Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm thúc đẩy Đến năm 2012, Việt Nam đã thu hút được gần 10 nghìn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký vượt trên 180 tỷ USD Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Ôxtrâylia, hiện nay hàng hóa Việt Nam đã vươn ra củng cố thế đứng trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi

Hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam có bước trưởng thành và phát triển nổi bật Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, Việt Nam đã phối hợp với nhiều

Trang 18

nước đấu tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc Đặc biệt, Việt Nam được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, đánh dấu quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã trở nên đầy đủ và sâu rộng Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị-xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trên thế giới./.

Câu 4 Phân tích những thành tựu, hạn chế và bài học từ quá trình triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước VN thời kỳ đổi mới? Trả lời:

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, trải nghiệm và liên tục đổi mới tư duy của Đảng trên mọi lĩnh vực, trong đó đổi mới nhận thức về thế giới và tư duy đối ngoại để hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, có vị trí quan trọng nổi bật Những sáng tạo trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng góp phần kết hợp một cách hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa nước ta ngày càng chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển.

Một trong những nét đặc trưng nổi bật nhất của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là quán triệt sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh Xét trên nhiều góc độ, đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là sự trở lại với tư duy biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, với nhãn quan chiến lược và sách lược đối ngoại đúng đắn của Hồ Chí Minh Những tinh hoa trong tư tưởng ngoại giao nhân văn, hòa bình, rộng mở, linh hoạt, mềm dẻo có nguyên tắc của Hồ Chí Minh trở thành nền tảng lý luận và ngọn cờ tư tưởng cho đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Về thành tựu:

Thứ nhất, đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các nước lớn và các trung tâm hàng đầu thế giới Nổi bật: Giải quyết tình trạng căng thẳng, đối đầu

giữa Việt Nam với một số nước lợi dụng vấn đề Campuchia để bao vây, cô lập Việt Nam, góp phần khai thông quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài; đẩy mạnh

Trang 19

các hoạt động ngoại giao và bình thường hóa quan hệ vào tháng 11-1991; chủ động khôi phục và mở rộng quan hệ với các nước ASEAN; đấu tranh đòi Mỹ phá bỏ cấm vận và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Việt Nam… Do vậy, Việt Nam đã phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới, Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 177 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn; có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới

Thứ hai, đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã hội Thông qua các hoạt động ngoại giao cụ thể, tích cực, đặc biệt

là chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác chủ chốt, thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế, bắt đầu hội nhập chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã tranh thủ được nguồn ngoại lực to lớn phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được đặc biệt quan tâm Đến nay, nước ta đã thu hút được hơn 17 nghìn dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng số vốn đăng ký hơn 170 tỷ USD Cộng đồng doanh nghiệp và tài trợ quốc tế tỏ rõ niềm tin đối với công cuộc đổi mới, tiếp tục cam kết tài trợ cho Việt Nam Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN), Trung Quốc, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, hiện nay hàng hóa Việt Nam đã vươn mạnh ra củng cố thế đứng trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi

Thứ ba, giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,

đồng thời từng bước giải quyết được nhiều vấn đề về biên giới trên bộ và trên biển với các nước có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để quản lý biên giới, bảo vệ chủ quyền, mở rộng hợp tác quốc tế, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực Cho đến nay, thông qua các hoạt động ngoại giao, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định biên giới trên bộ và hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên bộ; ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá Vịnh Bắc Bộ; ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Công tác phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với Lào và Campuchia đang được tích cực triển khai trên cơ sở những Hiệp định biên giới đã ký kết Ngoài ra, Việt Nam đã ký các

Trang 20

thỏa thuận song phương về hợp tác giải quyết vùng chồng lấn trên biển với từng nước trong khu vực như với Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Thái Lan trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng cường hợp tác.

Thứ tư, có những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính xây dựng cho xu thế hòa bình, hợp tác Thông qua các hoạt động cụ thể như tổ chức

thành công nhiều hội nghị quốc tế: Hội nghị cấp cao Pháp ngữ, Hội nghị cấp cao ASEM, APEC; Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2010, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, thành viên Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2017…, Việt Nam đã tham gia giải quyết nhiều vấn đề lớn của thế giới và khu vực Với những đóng góp tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm và mang tính xây dựng (đặc biệt sáng kiến của Việt Nam về “Xây dựng niềm tin chiến lược” tại Diễn đàn an ninh Shanggrila năm 2013), tiếng nói của Việt Nam được cộng đồng quốc tế coi trọng, lắng nghe, qua đó mà không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

Thứ 5, quảng bá hình ảnh, tiềm năng, đất nước, con người Việt Nam

Ngoại giao văn hóa được xác định là một trong ba trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế Với trọng tâm "quảng bá, xúc tác, mở đường, vận động, tiếp thu", ngoại giao văn hóa chú trọng quảng bá hình ảnh và tiềm năng đất nước với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, gây được ấn tượng tốt đẹp và thiện cảm của cộng đồng quốc tế Với hành trang văn hóa độc đáo và giàu truyền thống, Việt Nam ngày càng tự tin, năng động vươn lên tầm cao mới trong giao lưu và hội nhập với khu vực và thế giới.

Về hạn chế, nguyên nhân:

Một là, yếu kém trong công tác nghiên cứu cơ bản và dự báo chiến lược

Công tác này trong những năm qua tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu, có lúc còn thiếu tính chủ động, thiếu sự phối hợp điều hành thống nhất.

Hai là, chưa đưa các quan hệ được thiết lập đi vào chiều sâu, bền vững Cho

đến nay, Việt Nam đã mở rộng được đáng kể quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ (quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước và vùng lãnh thổ, quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước) nhưng chưa đưa mối quan hệ đó vào phát triển chiều sâu, bền vững do chưa xây dựng được các khuôn khổ quan hệ hoặc chưa cụ thể hóa các thỏa thuận đã ký kết Trong quan hệ với các nước,

Trang 21

nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước.

Ba là, những hạn chế trong công tác chỉ đạo, quản lý Trong những năm qua,

hoạt động đối ngoại là khá sôi động, song không ít các hoạt động tính hiệu quả thấp, thậm chí còn gây lãng phí Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, sự quản lý công tác đối ngoại trong nhiều trường hợp vẫn còn thiếu nhịp nhàng, ăn khớp…

Nguyên nhân:

- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.

- Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ, trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.

- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.

- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả

về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh

Một số bài học trong thực hiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới

Từ thực tiễn hoạt động đối ngoại gần 30 năm qua với những thành tựu và hạn chế của nó, có thể rút ra một số bài học sau:

Thứ nhất, mục tiêu hàng đầu của đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc Đây

là vấn đề có tính nguyên tắc Đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia dân tộc với mục tiêu chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa trong sự kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thứ hai, kết hợp hài hòa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc với quốc tế Trong sự kết hợp này, sức mạnh dân tộc giữ vai trò quyết định, được thể

hiện ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất lẫn tinh thần Đó là: sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; sức mạnh quốc phòng toàn dân ngày càng hiện đại đáp

Trang 22

ứng được yêu cầu của bảo vệ Tổ quốc; sự ổn định chính trị - xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc được bảo vệ và phát huy; sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường

Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập quốc tế Kinh nghiệm

lịch sử của cách mạng Việt Nam cho thấy rằng, chỉ có thể thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng khi Đảng và Nhà nước Việt Nam kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định công việc của mình Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi hòa bình, hợp tác, phát triển trở thành xu thế lớn và trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa, độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với bên ngoài mà trái lại phải coi trọng và tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thực hiện chính sách ngoại giao rộng mở, thêm bạn bớt thù, không đi với nước này chống lại nước kia, không tham gia các liên minh gây đối đầu, căng thẳng.

Thứ tư, kiên định về nguyên tắc chiến lược nhưng mềm dẻo, cơ động, linh hoạt, sáng tạo trong xử lý tình huống theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” Nguyên tắc có tính chiến lược trong hoạt động đối ngoại là hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, trong giải quyết các tình huống, giải quyết từngvấn đề cụ thể, luôn phải sáng tạo, năng động, linh hoạt trên cơ sở phù hợp với hoàn

cảnh cụ thể, với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tác.

Thứ năm, triển khai hoạt động đối ngoại một cách toàn diện Trong thế giới

ngày nay, quá trình toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội Do đó, hoạt động đối ngoại sẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực và đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước…

Mặc dù vậy, có thể nói, chưa bao giờ quan hệ đối ngoại của Việt Nam lại rộng mở và phát triển như hiện nay Đối ngoại thời kỳ đổi mới đạt những thành tựu to lớn, một mặt góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ tốt nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu phát triển đất nước; mặt khác vững tin vươn lên trưởng thành vượt bậc, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức góp phần nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế Những thành tựu đó là biểu hiện sinh động nhất về tính sáng tạo, đúng đắn trong đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta

Trang 23

Câu 5 ĐC hãy phân tích thực trạng của phong trào cộng sản và công nhânquốc tế từ sau chiến tranh lạnh đến nay?

Những thay đổi của cục diện thế giới cùng sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa sau “chiến tranh lạnh” đã làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế rơi vào khủng hoảng nặng nề Đó là sự khủng hoảng về lý luận, đường lối phát triển, về cơ cấu giai cấp - xã hội, đặc biệt là cơ cấu giai cấp công nhân - lực lượng xã hội nền tảng cho phong trào này Phong trào còn chịu sự chống phá của các thế lực thù địch; mất đi một phần sự tín nhiệm, ủng hộ của các lực lượng truyền thống trước đây Các Đảng Cộng sản bị công kích, chèn ép trong cơ chế đa nguyên chính trị của các chính phủ tư sản, từ đó dẫn đến nhiều thua thiệt trong tranh cử Toàn cầu hóa tạo ra tình trạng cạnh tranh quyết liệt về việc làm, điều kiện sống làm nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân ở từng nước cũng như trên phạm vi khu vực và toàn cầu, gây chia rẽ khối đoàn kết thống nhất của giai cấp công nhân Thực trạng trên đòi hỏi các Đảng Cộng sản muốn tồn tại và phát triển phải tự đổi mới về lý luận, cơ cấu tổ chức, hình thức tập hợp lực lượng cũng như phương thức đấu tranh

1 Thực trạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

1.1 Ở các nước đi lên xã hội chủ nghĩa còn lại sau khủng hoảng (gồm:

Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên và Lào), phong trào do Đảng cộng sản và công nhân đóng vai trò cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Đây là cơ sở xã hội vững chắc và vị trí và vai trò ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Thành tựu cải cách và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua đã chứng tỏ sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội là rất mãnh liệt, với sự tìm tòi khai phá những “đặc trưng cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam, con đường đi lên “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”… Tại Hội thảo quốc tế "Phát triển và sáng tạo: Chủ nghĩa xã hội thế giới đầu thế kỷ XXI" được tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc, 10/2004), học giả nhiều nước đánh giá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường mà các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đã tạo niềm tin cho các Đảng Cộng sản, phong trào cộng sản và công nhân thế giới Hiện nay Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và đang cạnh tranh vị trí số 1 của Mỹ trong thế kỷ 21 này.

Trang 24

Công cuộc đổi mới sau gần 30 năm của Việt Nam thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, kinh tế tăng trưởng nhanh đạt tốc độ bình quan 7,26%/năm Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,26 lần so với năm 2000, GDP bình quân đầu người năm năm 2015 đạt 2.109 USD, tăng 57 USD so với năm 2014 Về đối ngoại, từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã bình thường hóa, phát triển quan hệ đa phương, đa dạng với tất cả các nước trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, chủ động và tích cực hội nhập với khu vực và thế giới Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn.

Lào và gần đây là Cu Ba đã từng bước đổi mới đất nước, đã được nhiều thành tựu tương đối quan trọng.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động

vẫn kiên trì con đường đã lựa chọn và có những thành tựu nhất định trong xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, tự chủ một số công nghệ, phát triển tiềm lực quân sự.

Vì thế, có thể khẳng định chắc chắn rằng, những nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang trở thành chỗ dựa và thành trì mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, có sự đóng góp to lớn và mang tính quyết định cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

1.2 Phong trào cộng sản ở khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) vàĐông Âu

Sau khi hệ thống XHCH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hầu hết các đảng cộng sản

cũng bị tan rã, rơi vào tình trạng chia rẽ, phân liệt và suy yếu nghiêm trọng Tuy nhiên, từ giữa thập niên 90 thế kỷ XX bắt đầu diễn ra sự phục hồi và củng cố với mức độ khác nhau của các đảng cộng sản ở khu vực SNG và Đông Âu

Phong trào cộng sản và công nhân ở khu vực Liên Xô (cũ) và Đông Âu vốn là cái nôi và từng là thành trì vững chắc của phong trào, nay từng bước hồi phục, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội… Tại các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng địa phương, nhiều đảng giành thắng lợi lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Séc và Mô-ra-va, một số đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có đảng liên tiếp giành được quyền đứng ra thành lập chính phủ như Đảng Cộng sản Môn-đô-va… Tuy nhiên, , bên cạnh đó vẫn còn đứng trước không ít khó khăn, hạn chế, chưa thoát ra khỏi khủng hoảng Đường lối, cương lĩnh

Trang 25

của nhiều đảng còn chậm đổi mới, chưa chuyển kịp so với yêu cầu của thời đại Cơ sở xã hội của một số đảng bị thu hẹp mạnh Tổ chức cơ sở đảng chỉ có ở địa bàn cư trú, trong khi tại các khu vực sản xuất lại chưa được thành lập Vấn đề đoàn kết, hợp tác, phối hợp hoạt động giữa các đảng còn nhiều bất cập, thậm chí tình trạng bất đồng, tranh giành ảnh hưởng đã làm giảm sức mạnh chung của các lực lượng cộng sản và cánh tả.

1.3 Quá trình phục hồi và củng cố của phong trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển

Phong trào cộng sản ở khu vực các nước tư bản phát triển, càng về những năm gần đây càng có những dấu hiệu phục hồi rõ nét Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn nội bộ, lại thường xuyên bị các thế lực thù địch công kích gay gắt, nhưng nhiều đảng cộng sản và công nhân tại khu vực này vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, lý tưởng cộng sản, điều chỉnh chiến lược, sách lược đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp lao động Đi đầu theo hướng nêu trên phải kể đến những cố gắng của Đảng Cộng sản ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đảng Cộng sản Tái lập Italia, Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp, Đảng Cộng sản Nhật Bản, v.v

Hiện nay, điểm nổi bật của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở các nước tư bản phát triển là đấu tranh đòi dân chủ, cải thiện điều kiện sống và làm việc Xác định đấu tranh cho tự do, dân chủ là bước đệm dần dần xóa bỏ dân chủ tư sản, xây dựng dân chủ vô sản, đòi mở rộng quyền công đoàn được tham gia tổ chức lao động, kiểm soát việc thu nhận và sa thải công nhân, tự do ngôn luận đã làm cho chủ nghĩa tư bản phải nhượng bộ từng bước và thu hút đông đảo quần chúng lao động Cuộc đấu tranh giành dân chủ, công bằng xã hội ở các nước tư bản phát triển còn gắn chặt với cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống chạy đua vũ trang, bảo vệ môi trường đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia Đấu tranh chính trị, giành dân chủ của phong trào công nhân đã đưa đến một xu hướng tất yếu là tăng cường liên minh giữa phong trào công nhân với các phong trào chính trị xã hội tiến bộ khác trong một nỗ lực nhằm tạo sức mạnh tổng hợp chống chủ nghĩa tư bản toàn cầu

1.4 Quá trình vận động, củng cố và phát triển của phong trào cộng sản ở các nước đang phát triển Á - Phi - Mỹ Latinh

Trang 26

Các đảng cộng sản ở các nước đang phát triển, tuy ra đời sớm và chiếm số lượng đông, nhưng ngay trong thời kỳ trước năm 1991, phần lớn đều là các đảng không nắm chính quyền, nhiều đảng còn phải hoạt động bất hợp pháp và tất cả đều phải đối mặt với tình trạng kém phát triển về kinh tế - xã hội của đất nước Khó khăn mang tính đặc thù này tăng lên trong những năm đầu thập niên 90, khi phong trào cộng sản ở các nước đang phát triển Á - Phi - Mỹ Latinh không còn sự hậu thuẫn từ hệ thống xã hội chủ nghĩa

Phong trào cộng sản Mỹ Latinh - Caribê đã đạt nhiều thành công lớn trong việc tập hợp và liên minh lực lượng những năm vừa qua Chấp nhận sáng kiến của Đảng Lao động Braxin, đông đảo các lực lượng cộng sản, công nhân, cánh tả, dân chủ - xã hội, tư sản cấp tiến ở khu vực đã tập hợp lại, thành lập Diễn đàn Sao Paolô (Braxin) của cánh tả khu vực vào tháng 9-1990 Từ 41 đảng thành viên sáng lập, qua các 18 kỳ hội nghị từ 1990 đến nay, Diễn đàn Sao Paolô có hơn 130 đảng phái, tổ chức, phong trào ở tất cả các châu lục trên thế giới tham gia.

2 Đặc điểm chung về thực trạng của phong trào:

- Về cơ bản, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay đều dựa trên nền tảng tư tưởng chung là chủ nghĩa Mác - Lênin Đó là hệ quả của “một phong trào hiện thực”; “những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề đang tồn tại”.

- Phong trào đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới của thời đại, đó là từ sự biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kết cấu kinh tế - xã hội (trong đó có kết cấu giai cấp), thay đổi phương thức sống và phương thức tư duy… trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - nghệ, sự phát triển của kinh tế tri thức, sự điều chỉnh và thích nghi của chủ nghĩa tư bản, sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự thỏa hiệp của một bộ phận đi theo “con đường thứ ba”.

Thời đại hiện nay đang tạo ra những tiền đề mới và đưa nhân loại dịch chuyển gần hơn về phía chủ nghĩa xã hội Song, thời đại cũng tạo ra sự biến đổi sâu sắc trong đội ngũ công nhân và những người lao động), dẫn đến sự phân tán lực lượng, lợi ích và có sự chênh lệch ngày càng lớn về trình độ, điều kiện sống ngay bên trong giai cấp công nhân (ở mỗi nước và giữa các nước với nhau) Những cơ hội và thách thức đó đòi hỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay phải có sự phối hợp trên quy mô toàn cầu để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận tương xứng.

Trang 27

- Phong trào đã có những bước phát triển mới về lý luận và linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn Trước hết, đó là quá trình nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn và làm sáng tỏ hơn các vấn đề của thời đại, về quy luật phát triển của xã hội loài người, cũng như quy luật vận động và phát triển của bản thân phong trào Đồng thời, có sự tìm tòi và hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, bước đầu đạt được nhiều thành tựu quan trọng Bên cạnh đó, phong trào đã tìm thấy những hình thức tập hợp lực lượng mới, với những phương thức tổ chức và hoạt động mới phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ đương đại.

- Phong trào đang tự đổi mới để phục hồi và phát triển Trước hết là sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động theo hướng linh hoạt, phù hợp với bối cảnh mới Tiếp theo, quan hệ các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới (lực lượng lãnh đạo, hạt nhân của phong trào) từng bước được khôi phục và củng cố; không ngừng quan tâm mở rộng hợp tác, tăng cường phối hợp hành động và tập hợp lực lượng trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân Các quan hệ được thiết lập trên nhiều cấp độ (song phương, đa phương, khu vực và toàn cầu) và nhiều hình thức (hợp tác, trao đổi, hội nghị, hội thảo, diễn đàn…) Trong đó, nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và công nhân hiện nay là độc lập, tự chủ, bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đoàn kết hợp tác vì lợi ích chung.

3 Xu hướng vận động của phong trào cộng sản quốc tế

Từ thực trạng phong trào cộng sản quốc tế hiện nay, có thể thấy một số xu hướng vận động của phong trào trong thời gian tới:

Một là, phong trào cộng sản quốc tế tuy vẫn chưa vượt ra khỏi khủng hoảng,

đồng thời còn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn nhưng phong trào tiếp tục hồi phục, củng cố Phong trào sẽ vận động thông qua những bước đi, hình thức, cơ chế hoạt động phong phú, linh hoạt, từ mô hình tìm tòi mô hình chủ nghĩa xã hội, con đường đấu tranh cách mạng, chiến lược và sách lược… đến tập hợp lực lượng, liên minh giai cấp, phối hợp hành động chung

Hai là, sự vận động tới đây của phong trào sẽ còn quanh co và không đồng

đều, về tổng thể, sẽ có những bước tiến mới trong khi vẫn có thể xảy ra những bước lùi bộ phận Một số đảng cộng sản và công nhân có thể sẽ giành được thắng lợi trong bầu cử và lên cầm quyền ở một số nước như đã từng xảy ra ở Nêpan hoặc Mônđôva

Trang 28

Nhưng, với so sánh lực lượng ở mỗi nước và trên trường quốc tế trong thập niên tới, những thắng lợi đó (nếu có) mới là thắng lợi trong bầu cử, chưa thể làm thay đổi chế độ chính trị- xã hội với việc giành chính quyền về tay nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa xã hội Các nước xã hội chủ nghĩa đứng trước cả thời cơ cũng như thách thức, nhưng vẫn tiếp tục cải cách, đổi mới với những thành tựu mới, tăng cường được sức mạnh tổng hợp quốc gia, hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới

Ba là, quá trình tự đổi mới của các đảng cộng sản diễn ra khá toàn diện, trong

đó các đảng sẽ coi trọng hơn đổi mới về lý luận, đường lối chính trị và tổ chức, đồng thời đổi mới các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa các đảng nhằm tăng cường sự hợp tác, phối hợp cả song phương và đa phương

Bốn là, các đảng đều nhấn mạnh yêu cầu cấp bách trong việc mở rộng ảnh

hưởng của mình trong giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, các tổ chức thanh niên, công đoàn… chủ động củng cố cơ sở giai cấp - xã hội, nâng cao vai trò trong đời sống chính trị xã hội.

Năm là, triển vọng chung của phong trào cộng sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc chủ

yếu vào khả năng tự đổi mới của các đảng cộng sản và công nhân, vào sự hợp tác và phối hợp hành động giữa các đảng ở các khu vực và trên thế giới, vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, vào việc chủ nghĩa xã hội thể hiện những ưu việt của mình cũng như khả năng sử dụng các thành tựu văn minh nhân loại trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiên bộ xã hội

Câu 6: Đồng chí làm rõ vị trí, vai trò của Phong trào cộng sản, công nhânquốc tế sau Chiến tranh lạnh và dự báo triển vọng của Phong trào trong thậpniên thứ 2 của thế kỷ XXI

1 Thực trạng của PTCS và CNQT

2 Thực trạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

- Ở các nước đi lên xã hội chủ nghĩa còn lại sau khủng hoảng (gồm: Trung

Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên và Lào), phong trào do Đảng cộng sản và công nhân đóng vai trò cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Đây là cơ sở xã hội vững chắc và vị trí và vai trò ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Thành tựu cải cách và đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua đã chứng tỏ sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội là rất

Trang 29

mãnh liệt, với sự tìm tòi khai phá những “đặc trưng cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam, con đường đi lên “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”… Tại Hội thảo quốc tế "Phát triển và sáng tạo: Chủ nghĩa xã hội thế giới đầu thế kỷ XXI" được tổ chức ở Bắc Kinh (Trung Quốc, 10/2004), học giả nhiều nước đánh giá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường mà các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đã tạo niềm tin cho các Đảng Cộng sản, phong trào cộng sản và công nhân thế giới

Vì thế, có thể khẳng định chắc chắn rằng, những nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang trở thành chỗ dựa và thành trì mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, có sự đóng góp to lớn và mang tính quyết định cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

- Phong trào cộng sản ở khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và Đông Âu

Phong trào cộng sản và công nhân ở khu vực Liên Xô (cũ) và Đông Âu vốn là cái nôi và từng là thành trì vững chắc của phong trào, nay từng bước hồi phục, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội… Tại các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng địa phương, nhiều đảng giành thắng lợi lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Séc và Mô-ra-va, một số đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có đảng liên tiếp giành được quyền đứng ra thành lập chính phủ như Đảng Cộng sản Môn-đô-va… Tuy nhiên, , bên cạnh đó vẫn còn đứng trước không ít khó khăn, hạn chế, chưa thoát ra khỏi khủng hoảng Đường lối, cương lĩnh của nhiều đảng còn chậm đổi mới, chưa chuyển kịp so với yêu cầu của thời đại .

1.3 Quá trình phục hồi và củng cố của phong trào cộng sản ở các nước tư bản phát triển

Phong trào cộng sản ở khu vực các nước tư bản phát triển, càng về những năm gần đây càng có những dấu hiệu phục hồi rõ nét Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn nội bộ, lại thường xuyên bị các thế lực thù địch công kích gay gắt, nhưng nhiều đảng cộng sản và công nhân tại khu vực này vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, lý tưởng cộng sản, điều chỉnh chiến lược, sách lược đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp lao động

1.4 Quá trình vận động, củng cố và phát triển của phong trào cộng sản ở các nước đang phát triển Á - Phi - Mỹ Latinh

Trang 30

Các đảng cộng sản ở các nước đang phát triển, tuy ra đời sớm và chiếm số lượng đông, nhưng ngay trong thời kỳ trước năm 1991, phần lớn đều là các đảng không nắm chính quyền, nhiều đảng còn phải hoạt động bất hợp pháp và tất cả đều phải đối mặt với tình trạng kém phát triển về kinh tế - xã hội của đất nước Khó khăn mang tính đặc thù này tăng lên trong những năm đầu thập niên 90, khi phong trào cộng sản ở các nước đang phát triển Á - Phi - Mỹ Latinh không còn sự hậu thuẫn từ hệ thống xã hội chủ nghĩa Phong trào cộng sản Mỹ Latinh - Caribê đã đạt nhiều thành công lớn trong việc tập hợp và liên minh lực lượng những năm vừa qua

2 Vị trí, vai trò của phong trào CS&CN quốc tế sau chiến tranh lạnh

Từ sau khi ra đời đến nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế quốc tế luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh chống sự thống trị, áp bức, bóc lột của giải cấp tư sản vì sự tiến bộ xã hội Sau chiến tranh lạnh, phong trào tạm thời lâm vào khủng hoảng nhưng có dấu hiệu phục hồi, đang tiến triển theo hướng tạo ra ảnh hưởng sâu rộng, chi phối nhiều mặt và tham gia quyết định sự vận động hợp quy luật của lịch sử loài người, đó là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

- Sau chiến tranh lạnh, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là ở các nước phát triển, có lúc được đẩy lên cao trào, có lúc thoái trào, thậm chí thất bại Song mục tiêu lâu dài mà phong trào theo đuổi là không thể đảo ngược Cùng với những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang có nguồn cổ vũ lớn lao, giúp phong trào trở thành điểm tựa củng cố niềm tin và lý tưởng đi lên xã hội chủ nghĩa.

Phong trào ở thập kỷ kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đã có bước phát triển vượt bậc Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không những đã trụ vững mà còn tiến hành cải cách và đổi mới, vươn lên mạnh mẽ, tạo sức sống mới cho mô hình hiện thực đi lên chủ nghĩa xã hội Các đảng cộng sản ở Đông Âu và không gian hậu Xô viết bắt đầu phục hồi ở những mức độ khác nhau Các đảng cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển tiếp tục được củng cố, tích cực hoạt động tham chính Làn sóng cánh tả ở các nước Mỹ Latinh dâng cao ào ạt như một tìm tòi và thử nghiệm mới về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”…

- Mặt khác, việc kiên trì giữ vững mục tiêu lâu dài và thành tựu đạt được đã giúp phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những đóng góp giá trị cả về lý luận và thực tiễn cho việc phát triển chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lê nin trong

Trang 31

hoàn cảnh lịch sử mới Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình phục hồi của phong trào, góp phần thiết thực vào việc tìm kiếm những phương thức hoạt động hiệu quả của phong trào trong giai đoạn hiện nay Theo đó, các đảng trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế đều thừa nhận việc sử dụng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, được quy định bởi trình độ phát triển hiện nay của lực lượng sản xuất của xã hội loài người, là phương hướng đúng đắn để các nước đi lên chủ nghĩa xã hội tự đổi mới và phát triển…

- Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay là kết quả vận động, phát triển lâu dài, quanh co phức tạp, theo một “quá trình lịch sử - tự nhiên” Lực lượng nòng cốt của phong trào là giai cấp công nhân; hạt nhân lãnh đạo của phong trào là các đảng cộng sản và công nhân với mục tiêu cuối cùng của phong trào là đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, chúng ta hoàn toàn có cơ sở vững chắc để tin tưởng vào sự thắng lợi cuối cùng của phong trào Đó cũng chính là việc nhận thức đúng đắn quy luật khách quan của lịch sử, đúng như lời nhắn nhủ của Mác: “Tương lai sẽ đến, tuy không nhanh như chúng ta mong đợi”.

3 Những triển vọng của phong trào cộng sản quốc tế

Từ thực trạng phong trào cộng sản quốc tế hiện nay, có thể thấy một số xu hướng vận động của phong trào trong thời gian tới:

Một là, phong trào cộng sản quốc tế tuy vẫn chưa vượt ra khỏi khủng

hoảng, đồng thời còn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn nhưng phong trào tiếp tục hồi phục, củng cố Phong trào sẽ vận động thông qua những bước đi, hình thức, cơ chế hoạt động phong phú, linh hoạt, từ việc tìm tòi mô hình chủ nghĩa xã hội, con đường đấu tranh cách mạng, chiến lược và sách lược đến tập hợp lực lượng, liên minh giai cấp, phối hợp hành động chung

Hai là, sự vận động tới đây của phong trào sẽ còn quanh co và không đồng

đều, về tổng thể, sẽ có những bước tiến mới trong khi vẫn có thể xảy ra những bước lùi bộ phận Một số đảng cộng sản và công nhân có thể sẽ giành được thắng lợi trong bầu cử và lên cầm quyền ở một số nước như đã từng xảy ra ở Nêpan hoặc Mônđôva Nhưng, với so sánh lực lượng ở mỗi nước và trên trường quốc tế trong thập niên tới, những thắng lợi đó (nếu có) mới là thắng lợi trong bầu cử, chưa thể làm thay đổi chế độ chính trị - xã hội với việc giành chính quyền về tay

Trang 32

nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa xã hội Các nước xã hội chủ nghĩa đứng trước cả thời cơ cũng như thách thức, nhưng vẫn tiếp tục cải cách, đổi mới với những thành tựu mới, tăng cường được sức mạnh tổng hợp quốc gia, hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới

Ba là, quá trình tự đổi mới của các đảng cộng sản diễn ra khá toàn diện, trong

đó các đảng sẽ coi trọng hơn đổi mới về lý luận, đường lối chính trị và tổ chức, đồng thời đổi mới các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa các đảng nhằm tăng cường sự hợp tác, phối hợp cả song phương và đa phương

Bốn là, các đảng đều nhấn mạnh yêu cầu cấp bách trong việc mở rộng ảnh

hưởng của mình trong giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, các tổ chức thanh niên, công đoàn chủ động củng cố cơ sở giai cấp - xã hội, nâng cao vai trò trong đời sống chính trị xã hội.

Năm là, triển vọng chung của phong trào cộng sản quốc tế sẽ tùy thuộc chủ

yếu vào khả năng tự đổi mới của các đảng cộng sản và công nhân, vào sự hợp tác và phối hợp hành động giữa các đảng ở các khu vực và trên thế giới, vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, vào việc chủ nghĩa xã hội thể hiện những ưu việt của mình cũng như khả năng sử dụng các thành tựu văn minh nhân loại trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

Câu 7 Nêu và phân tích mục tiêu và chính sách đối ngoại của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay?

Mỹ là quốc gia nằm ở phía Bắc lục địa châu Mỹ, có diện tích 9.393.000 km2 (lớn thứ tư thế giới), dân số 316.668.576 người (7- 2013) chiếm 4,51% dân số thế giới.

Ba nhân tố tác động, ảnh hưởng hoặc chi phối việc hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh

Một là, Vị thế siêu cường thế giới duy nhất

Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn duy trì được ưu thế vượt trội ở hầu như tất cả các lĩnh vực làm nên sức mạnh của một quốc gia.

Về quân sự, Mỹ là siêu cường vượt xa tất cả các nước khác về tiềm lực, sức

mạnh quân sự - quốc phòng

Về kinh tế, Mỹ chiếm vị trí đứng đầu thế giới trong mọi chỉ số thể hiện tiềm lực

kinh tế của một nước Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất thế giới Mỹ cũng là nước đóng vai trò chủ đạo trong các thiết chế kinh tế, tài chính, thương mại chủ chốt của

Trang 33

thế giới như IMF,WB,WTO Các Công ty xuyên quốc gia (TNCs) của Mỹ đang chiếm vị trí lấn lướt trong rất nhiều lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - thương mại thế giới Mỹ vẫn là nước có khả năng tác động đáng kể tới cục diện chung cũng như nhiều tổ chức quốc tế hàng đầu

Về khoa học - công nghệ: Mỹ dẫn đầu thế giới về ngân sách dành cho nghiên

cứu và phát triển (R&D) chiếm gần 40% tổng chi phí toàn thế giới Mỹ chiếm 20/29 lĩnh vực công nghệ mũi nhọn của thế giới Hiện nay nước này đang ở vị trí dẫn đầu trong các ngành công nghệ mới như nano, sinh học và vật liệu mới, đảm bảo cho sự phát triển của nước này trong vài thập niên tới (trùng với Chuyên đề 1 – trang 17).

Về chính trị - xã hội, vị thế siêu cường thế giới của Mỹ được duy trì suốt từ năm

1945 đến nay Đặc biệt từ sau Chiến tranh lạnh, trên thực tế Mỹ đang là hạt nhân đóng vai trò chi phối đáng kể nền chính trị thế giới Tình hình chính trị - xã hội Mỹ nhìn chung ổn định với sự thay nhau cầm quyền, điều hành đất nước của hai đảng tư sản lớn - Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa

Tóm lại, vị thế siêu cường thế giới duy nhất chính là nhân tố đóng vai trò chi phối chiến lược và chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh.

Hai là, Những biến động của môi trường an ninh thế giới sau Chiến tranh lạnh

Với tư cách là siêu cường thế giới duy nhất, trước mắt Mỹ không gặp phải thách

thức quân sự - an ninh từ bất cứ nước lớn nào Tuy nhiên, Mỹ lại đang đứng trước những đe dọa an ninh mới, được coi là “phi truyền thống, không cân xứng” Đó là việc không ngăn chặn được sự phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; sự gia tăng chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức, xung đột lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo, nạn “tin tặc” Đó là sự đe dọa an ninh liên quan đến các vấn đề phát triển, nghèo đói, dòng người di cư, sự hủy diệt môi trường sinh thái Giới cầm quyền Mỹ còn cho rằng các “nhà nước ngoan cố, cứng đầu” ở thế giới “đang phát triển” đang tiềm ẩn những mối đe dọa an ninh đối với Mỹ

Ba là, Những xu hướng vận động khách quan của các mối quan hệ quốc tế hiện đại

Sau Chiến tranh lạnh, các chủ thể quan hệ quốc tế cũng như hệ thống các quan hệ quốc tế có những thay đổi, biến chuyển rất lớn Các quốc gia độc lập, có chủ quyền đang khẳng định vị thế là những chủ thể có vai trò ngày càng tăng trong hệ thống các quan hệ quốc tế hiện đại Ý thức độc lập tự chủ, tự cường quốc gia, tự

Trang 34

cường khu vực của các nước vừa và nhỏ, đang phát triển trỗi dậy mạnh mẽ Họ liên kết với nhau trong các tổ chức khu vực như ASEAN, MERCOSUR, AU, Phong trào Không liên kết nhằm chống lại mưu toan chèn ép, áp đặt của các nước phát triển trong quan hệ quốc tế Đồng thời, cùng với sự phát triển sâu rộng của xu thế toàn cầu hóa là sự gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc trong cộng đồng quốc tế Bên cạnh đó, sự kết thúc Chiến tranh lạnh đã làm xuất hiện xu hướng phi tư tưởng hóa các quan hệ quốc tế, nghĩa là các quan hệ quốc tế được xúc tiến không còn dựa trên yếu tố ý thức hệ là chính, mà dựa trên lợi ích quốc gia là chính.

Mục tiêu và nội dung chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh

Mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán, không thay đổi, mang tính chất lâu dài là duy trì và củng cố vị trí bá quyền thế giới của Mỹ trong tất cả các lĩnh vực

chính trị - tư tưởng, kinh tế - thương mại, quân sự - an ninh Tuy nhiên, quan niệm, nội dung bá quyền và cách thức thực hiện bá quyền có sự thay đổi, điều chỉnh từ

G.H.Bush đến B.Clintơn và từ B.Clintơn đến G.W.Bush và B.Obama Chính quyền

của Đảng Cộng hòa mang đậm tính chất cứng rắn và đơn phương hơn so với chính quyền của Đảng Dân chủ.

Ba mục tiêu trụ cột và ba nhóm lợi ích quốc gia

Để thực hiện mục tiêu chiến lược bao trùm trên, chính quyền Mỹ tập trung vào các mục tiêu được gọi là trụ cột, là căn cứ, là cơ sở trong tổng thể chiến lược đối nội và đối ngoại của Mỹ như sau:

Một là, củng cố và tăng cường an ninh cho Mỹ và đồng minh của Mỹ.Hai là, bảo đảm sự thịnh vượng kinh tế cho nước Mỹ.

Ba là, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở nước ngoài.

Một điều dễ nhận thấy là tất cả các mục tiêu kể trên đều gắn liền với mục tiêu trên hết và không thay đổi là phục vụ các lợi ích quốc gia của Mỹ Các chính quyền Mỹ xác định nước Mỹ có 3 nhóm lợi ích quốc gia ở 3 cấp độ như sau:

Thứ nhất, các lợi ích quốc gia quan trọng sống còn.Thứ hai, các lợi ích quốc gia quan trọng.

Thứ ba, các lợi ích ngoại vi và các lợi ích khác.

Trên thực tế Mỹ luôn tuân thủ nguyên tắc căn cứ vào lợi ích để có biện pháp, hành động tương ứng Để bảo đảm các lợi ích quốc gia, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại Mỹ là tư tưởng thực hiện hành động ngoại giao trên cơ sở sức mạnh, trước

Trang 35

hết là sức mạnh quân sự Tuy nhiên, qua các đời tổng thống thời kỳ sau Chiến tranh lạnh đã có một số điều chỉnh nhất định.

Thời Tổng thống G.H.Bush (1989-1993)

G.H.Bush lên làm Tổng thống Mỹ từ đầu năm 1989 trong bối cảnh thế giới đang có những thay đổi nhanh chóng, nhất là ở khu vực Trung Đông Âu và Liên Xô Nắm bắt được thời cơ thuận lợi, ông đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại Mỹ từ “Ngăn chặn” sang “Vượt trên ngăn chăn” Thực chất của chiến lược mới này là lợi dụng các cuộc khủng hoảng trầm trọng ở Trung Đông Âu và Liên Xô để đẩy nhanh hơn nữa chiến lược “Diễn biến hòa bình” ở khu vực này, lái các nước này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, vào vòng kiểm soát của Mỹ.

Sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Trung Đông Âu bị sụp đổ, Tổng thống Mỹ G.H.Bush càng ra sức phô trương thanh thế và chuyển mục tiêu sang xây dựng “một trật tự thế giới mới” với quyền thống soái của Mỹ.

Thời Tổng thống B.Clinton (1993-2000)

Với việc xác định mục tiêu chiến lược bao trùm là “lãnh đạo thế giới”, Tổng thống Bill Clintơn đã từng bước điều chỉnh từ chiến lược “Vượt trên ngăn chặn” sang “Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” Nếu như mục tiêu chiến lược không thay đổi, thì chính quyền B.Clinton có sự điều chỉnh rõ rệt trong cách thức triển khai chiến lược toàn cầu của Mỹ Chính quyền Clinton “cam kết” về vai trò “lãnh đạo thế giới”, tiếp tục can dự vào các công việc và thể chế quốc tế, về tiếp tục dẫn dắt nền kinh tế thế giới theo hướng tự do hóa và toàn cầu hóa Còn “mở rộng” được hiểu là Mỹ sẽ khuếch trương, mở rộng các cộng đồng tự do, các nền dân chủ, thực chất là khuếch trương, mở rộng dân chủ Mỹ, giá trị Mỹ, mô hình Mỹ ra toàn thế giới Có thể thấy nước Mỹ dưới thời Clinton đã chuyển từ vai trò “sen đầm quốc tế” sang “lãnh đạo thế giới” Nhưng thực chất của chiến lược cam kết và mở rộng là xác lập hệ tư tưởng tư sản, các giá trị phương Tây, chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, mô hình kinh tế - xã hội tự do mới và sức mạnh áp đảo của Mỹ trên phạm vi toàn cầu nhằm giành chiến thắng hoàn toàn đối với chủ nghĩa cộng sản.

Thời Tổng thống G.W Bush (2001-2004)

Ngay sau khi lên cầm quyền, Tổng thống G.W.Bush đã thực thi một chính sách đối ngoại khá cứng rắn chẳng những với các “Nhà nước cứng đầu” như Irắc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, mà với cả những “đối tác chiến lược” lớn như Nga và Trung Quốc Nhưng sự kiện ngày 11-9 đã cho thấy, các nguy cơ, thách thức đối

Trang 36

với an ninh Mỹ trở nên hết sức phức tạp và khó lường Từ thực tế đó, chính quyền G.W.Bush đã có những điều chỉnh chiến lược lớn như sau: chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược, an ninh quân sự trở thành trụ cột hàng đầu; hành động đơn

phương khi theo đuổi mục đích; châu Á - Thái Bình Dương trở thành trọng điểm số 1 Chiến lược an ninh quốc gia “đánh đòn phủ đầu” là sự thể hiện các điều chỉnh chiến lược đó của chính quyền Tổng thống G.W.Bush, còn liên minh quốc tế chống khủng bố là một trong những biểu hiện trên thực tế chính sách đối ngoại thực dụng của Mỹ.

Thời Tổng thống Barak Obama (từ 1-2009 đến nay)

Chính quyền Tổng thống B.Obama thừa hưởng một di sản nặng nề sau 8 năm cầm quyền của chính quyền tiền nhiệm: khủng hoảng tài chính - kinh tế trầm trọng, vị thế và hình ảnh của nước Mỹ bị suy giảm rất đáng kể, nhất là sự sa lầy của Mỹ ở Irắc và Ápganixtan Điều này làm suy yếu hơn thế và lực của Mỹ, đặt ra những ưu tiên và mục tiêu cấp bách trong việc điều chỉnh chính sách của chính quyền Obama Đối với mọi tổng thống Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, điều không hề thay đổi trong đường hướng, chiến lược, chính sách đối ngoại của họ là đều cố gắng duy trì và củng cố cho bằng được địa vị siêu cường, đứng đầu thế giới trên tất cả các lĩnh vực, lấy đó làm cơ sở để dẫn dắt (hay áp đặt) thế giới đi theo những giá trị của nước Mỹ Do đó, chính sách đối ngoại của chính quyền Obama tập trung vào ba mục tiêu chiến lược hàng đầu: củng cố vị trí siêu cường số một thế giới của Mỹ, giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính nhằm phục hồi và phát triển kinh tế, chống khủng bố với trọng tâm là cuộc chiến ở Irắc và Ápganixtan.

Có thể thấy một số thay đổi trong đối ngoại của B.Obama so với chính quyền tiền nhiệm, đó là:

- Chính sách đối ngoại của Mỹ bớt đơn phương hơn, chú trọng đến tính hiệu quả, linh hoạt hơn theo hướng tăng đối thoại, hợp tác (tuy nhiên vẫn kiên quyết xử lý bằng “sức mạnh cứng” khi cần thiết).

- Phương sách thực hiện chính sách đối ngoại thể hiện rõ nét hơn sự kết hợp sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để tạo nên “sức mạnh thông minh”.

- Khu vực Mỹ Latinh và châu Phi được chú trọng hơn so với hai thời Tổng thống G.H.Bush và G.W.Bush

- Ngoài các tổ chức, các thiết chế quốc tế mà từ lâu Mỹ đã có vị trí áp đảo, Mỹ

Trang 37

đang có chính sách gia tăng ảnh hưởng tại các tổ chức như ASEAN, ASEM, EU,

Quan hệ Mỹ - Việt Nam

Trong vòng hơn 50 năm qua, quan hệ Mỹ - Việt đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với những bước thăng trầm, thay đổi, biến chuyển quan trọng và cơ bản Quan hệ Việt - Mỹ có những đặc thù riêng, vì vậy cũng khác hẳn về tính chất và tầm quan trọng so với các quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam hiện nay.

Quan hệ Mỹ - Việt trên lĩnh vực chính trị - an ninh

Sau nhiều năm bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với Việt Nam, tháng 7-1995 quan hệ chính trị - ngoại giao Mỹ - Việt được chính thức bình thường hóa Ngày 25-7- 2013, tại cuộc gặp, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống

Obama quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm xây

dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ giữa hai bên

Tuy nhiên, quan hệ Mỹ - Việt trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao luôn tiềm ẩn những nhân tố gây căng thẳng, chủ yếu là do phía Mỹ thường sử dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để chống phá Việt Nam Chính vì vậy, trong cục diện vừa hợp tác, vừa đấu tranh của quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ, mặt đấu tranh trong lĩnh vực chính trị luôn lớn hơn mặt hợp tác.

Quan hệ Mỹ - Việt trên lĩnh vực kinh tế - thương mại và các lĩnh vực khác

Quan hệ Mỹ - Việt trong lĩnh vực kinh tế - thương mại phát triển rất nhanh, đạt được nhiều thành công, đồng thời tác động mạnh nhất đến sự phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam và của Mỹ quá cách xa nhau, nên những tranh chấp, xung đột trong quan hệ thương mại và đầu tư thường gây thua thiệt cho Việt Nam hơn.

Quan hệ Mỹ - Việt trong các lĩnh vực khác như giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - kỹ thuật cũng có những tiến triển đáng ghi nhận Về du lịch, số người Mỹ du lịch sang Việt Nam và Việt kiều về nước thăm quê cũng ngày càng tăng Ngoài ý nghĩa kinh tế, những hoạt động này còn làm tăng cường sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Mỹ - Việt.

Tóm lại, nghiên cứu chiến lược, chính sách đối ngoại Mỹ thời kỳ sau Chiến tranh lạnh có thể nhận thấy tính nhất quán, xuyên suốt, không thay đổi trong mục tiêu chiến lược của Mỹ là bá chủ thế giới cũng như sự linh hoạt, biến hóa về ưu tiên chiến lược và biện pháp, sách lược, thủ thuật, thủ đoạn ngoại giao của các chính

Ngày đăng: 20/04/2024, 15:25

Tài liệu cùng người dùng

Tài liệu liên quan